Biến Đổi Khí Hậu Cực Đoan – Giải Pháp Để Có Sức Khỏe Bền Vững

Những giải pháp để có được một sức khoẻ bền vững vĩ mô nhằm giảm thiểu các nguy cơ ở Việt Nam được đề xuất trong bài viết tổng hợp, tóm tắt tổng quan từ nghiên cứu của 23 nhà khoa học trẻ Việt Nam, đăng trên tạp chí khoa học uy tín ngành Y tế Sức khỏe Lancet Regional Health, Western Pacific vào tháng 11 năm 2023. Bạn sẽ thấy rõ mối liên hệ giữa biến đổi khí hậu ở Việt Nam Các loại dịch bệnh trên người, các xu hướng và nguy cơ về tác động của biến đổi khí hậu đối với sức khỏe trong tương lai.

Bien Doi Khi Hau O Viet Nam thumbnail 02
Trẻ nhập viện tăng đột biến do thời tiết thất thường (Nguồn: báo Tuổi Trẻ)

Biến đổi khí hậu đang ở tình trạng báo động cao

Nhiệt độ cực cao, ô nhiễm không khí và sự lây lan ngày càng tăng của các bệnh truyền nhiễm chết người chỉ là một số lý do khiến Tổ chức Y tế Thế giới gọi biến đổi khí hậu là mối đe dọa sức khỏe lớn nhất mà nhân loại phải đối mặt.

Mặc dù không ai tránh khỏi tác động của biến đổi khí hậu, nhưng các chuyên gia cho rằng nguy cơ cao nhất sẽ là trẻ em, phụ nữ, người già, người di cư và người dân ở các quốc gia kém phát triển, nơi thải ra ít khí nhà kính làm nóng hành tinh nhất.

Biến đổi khí hậu gây ra những tác động đáng kể và ngày càng leo thang đối với sức khỏe con người, với những dự báo cho thấy sự gia tăng hơn nữa trong suốt thế kỷ.

  • Sóng nhiệt
  • Lũ lụt và cường độ bão
  • Bệnh lây truyền qua đường nước
  • Bệnh do thực phẩm
  • Vật trung gian truyền bệnh
  • Mất an ninh dinh dưỡng
  • Rối loạn sức khỏe tâm thần

Tuy nhiên, tính dễ bị tổn thương (Vulnerability) về sức khỏe trước biến đổi khí hậu không phân bố đồng đều mà thay đổi theo vùng địa lý do sự khác biệt về điều kiện môi trường, kinh tế xã hội cũng như năng lực thích ứng.

Mức độ phơi nhiễm và tính dễ tổn 

Biến đổi nhiệt độ

Khi nhiệt độ trung bình tăng 1°C, nguy cơ nhập viện tăng 1,1%–1,3%. Các đợt nắng nóng làm tăng đáng kể nguy cơ nhập viện và quy mô ảnh hưởng ở miền Bắc lớn hơn ở miền Nam (5,4% so với 1,3%).

Đối với những trường hợp nhập viện, nhiệt độ cao và thấp có liên quan đến nguy cơ mắc các bệnh về đường hô hấp và các bệnh tim mạch cao hơn. Trong khi, nhiệt độ cao có liên quan đến nguy cơ mắc các bệnh truyền nhiễm, bệnh thận và rối loạn sức khỏe tâm thần.

Các nhóm dễ bị tổn thương trước các rủi ro sức khỏe liên quan đến nhiệt bao gồm người già, trẻ em và những người thường xuyên làm việc ngoài trời như nông dân, cảnh sát giao thông.

Mối quan hệ nhiệt-sức khỏe đã được thay đổi bởi mật độ dân số, tỷ lệ nghèo, tỷ lệ mù chữ, thu nhập hộ gia đình, khả năng tiếp cận nguồn cung cấp nước và nhà vệ sinh hợp vệ sinh cũng như tỷ lệ trẻ em và phụ nữ mẫu giáo.

Đánh giá tính dễ bị tổn thương ở nhiều tỉnh cho thấy các tỉnh miền Nam dễ bị tổn thương hơn trước tác động của sóng nhiệt đến sức khỏe so với miền Bắc. Trong khi đó, hai nghiên cứu dự đoán tỷ lệ tử vong vượt mức sẽ tăng đặc biệt ở các nước nhiệt đới như Việt Nam (10,34% trên 1°C tăng) và số lượng nhập viện sẽ tăng thêm 10.000 trường hợp ở tỉnh bị ảnh hưởng nặng nề nhất ở ĐBSCL vào năm 2100.

Bien Doi Khi Hau O Viet Nam 01
A–Sự phơi nhiễm của dân số với các đợt nắng nóng (người-ngày) trên 8 vùng sinh thái của Việt Nam, 2001–2020. B–Chỉ số dễ bị tổn thương do nắng nóng của người dân Việt Nam, 1990–2018.

Chỉ số dễ bị tổn thương do nhiệt (HEVI) của Việt Nam từ năm 1990 đến năm 2020 cho thấy xu hướng ngày càng tăng cao hơn nhiều so với mức trung bình toàn cầu và mức trung bình của tất cả các khu vực của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Ví dụ, năm 2017, HEVI của Việt Nam đứng ở mức 57, trong khi mức trung bình toàn cầu là 36. Chỉ số được tính theo thang điểm từ 0 đến 100, với giá trị cao hơn cho thấy mức độ dễ bị tổn thương gia tăng.

Thời tiết cực đoan

Trong số các quốc gia Đông Nam Á, Việt Nam hứng chịu lũ lụt thường xuyên nhất, đặc biệt là lũ lụt do bão nhiệt đới chịu trách nhiệm về hầu hết các trường hợp tử vong liên quan đến thiên tai, tiếp theo là bão nhiệt đới và lũ quét.

Lũ lụt được dự đoán sẽ gia tăng mức độ nghiêm trọng trong những thập kỷ tới, cùng với số lượng dân số bị ảnh hưởng. Tác động sức khỏe được báo cáo nhiều nhất của lũ lụt là sự gia tăng số người chết và bị thương, bệnh lây truyền qua đường nước, mắt hồng (viêm kết mạc), viêm da và nguy cơ nhập viện.

Ví dụ, trận lũ lụt cực đoan hàng năm năm 2011 ở ĐBSCL đã làm tăng tỷ lệ nhập viện không do nguyên nhân bên ngoài, bệnh truyền nhiễm và bệnh hô hấp lần lượt là 7,2%, 16,4% và 25,5%. Ngoài ra, mực nước sông cao ở ĐBSCL làm tăng đáng kể nguy cơ nhập viện nhi khoa, đặc biệt là ở nhóm dưới 5 tuổi.

Hiệu ứng trễ của lũ lụt có thể được quan sát tới 15 ngày và nguy cơ nhập viện tăng theo mức độ nghiêm trọng của lũ lụt. Về lượng mưa cực lớn, cả năm nghiên cứu hiện tại đều báo cáo những tác động tiêu cực đối với trẻ em, bao gồm cả tình trạng thiếu cân, cân nặng khi sinh thấp, chỉ số chiều cao theo tuổi thấp hơn và tình trạng sức khỏe tổng thể thấp hơn. Trẻ em ở nông thôn và người dân tộc thiểu số bị ảnh hưởng nặng nề do lũ lụt và mưa lớn.

Tuy nhiên, lượng mưa trên mức trung bình một chút có liên quan tích cực đến sự phát triển nhận thức tốt hơn. Điều này có thể là do lượng mưa tăng có thể dẫn đến tăng cường nguồn thực phẩm tươi sống, không khí sạch hơn và giảm các chất ô nhiễm môi trường.

Các tác động tiêu cực đến sức khoẻ của hạn hán được báo cáo bao gồm tăng nguy cơ nhập viện, giảm tình trạng sức khỏe tổng thể và tăng chi tiêu y tế, giảm chỉ số khối cơ thể và chiều cao theo tuổi ở trẻ em.

Bien Doi Khi Hau O Viet Nam 07

Các bệnh truyền nhiễm nhạy cảm với khí hậu

Bằng chứng về các bệnh truyền nhiễm nhạy cảm với biến đổi khí hậu ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào 4 nhóm:

  • Bệnh do muỗi truyền;
  • Bệnh lây truyền qua đường nước;
  • Bệnh truyền nhiễm đường hô hấp;
  • Các phương thức truyền tải khác.

Bằng chứng về nhiệt độ tăng lên với tỷ lệ mắc bệnh sốt xuất huyết cao hơn là nhất quán trong tất cả các nghiên cứu. Ví dụ: nhiệt độ tăng 1 °C dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh sốt xuất huyết tăng 5% (3–7,4%), so với mức tăng 0,4%–2,5% ở các bệnh truyền nhiễm khác.

Mối liên quan tích cực giữa sốt xuất huyết và độ ẩm được tìm thấy ở 6 trên 8 nghiên cứu và các hiệp hội tiêu cực trong phần còn lại. Mười nghiên cứu cho thấy mối liên hệ tích cực giữa lượng mưa và bệnh sốt xuất huyết, nhưng một nghiên cứu báo cáo rằng mô hình này có thể đảo ngược khi lượng mưa vượt quá 550 mm mỗi tháng.

Một bệnh do muỗi truyền khác—bệnh sốt rét—đã giảm đáng kể và đến năm 2017, hơn 40 trong số 63 tỉnh không có bệnh sốt rét. Tuy nhiên, bệnh vẫn còn lưu hành ở một số vùng miền núi và nông thôn ở Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và ĐBSCL.

Các bệnh lây truyền qua đường nước bao gồm tiêu chảy và bệnh đường ruột đã được phân tích trong 9 nghiên cứu. Mối quan hệ bệnh tật do khí hậu-nước gây ra rất khác nhau (ví dụ: thay đổi 0,5%–2,5% khi nhiệt độ tăng 1°C, thay đổi 0,3%–1,7% khi độ ẩm tăng 1%110) hoặc thậm chí không đáng kể. Các tác giả cho rằng chất lượng nước cũng nên được coi là yếu tố đồng hành với các yếu tố khí hậu.

Các bệnh truyền nhiễm đường hô hấp bao gồm cúm/giống cúm, quai bị, thủy đậu và bệnh lao đã được nghiên cứu. Miền Bắc có mùa nóng lạnh; nguy cơ nhập viện cao nhất vì các bệnh truyền nhiễm đường hô hấp được quan sát thấy ở nhiệt độ 13°C (RR = 1,39) trong thời tiết lạnh và 33°C (RR = 1,21) trong thời tiết nóng, trong đó nhiệt độ lạnh hơn có tác động đáng kể hơn.

Ngược lại, ở miền Nam với thời tiết nắng nóng liên tục, các bệnh lây nhiễm qua đường hô hấp lại có mối tương quan nghịch với nhiệt độ (IRR dao động từ 0,85 đến 0,92) nhưng lại có mối tương quan thuận với độ ẩm và điểm sương (IRR dao động từ 1,08 đến 1,26).

Trong số các bệnh truyền nhiễm, có các đường lây truyền khác, bệnh tay chân miệng được nghiên cứu nhiều nhất. Những nghiên cứu này luôn tìm thấy mối liên hệ tích cực với nhiệt độ và độ ẩm, ngoại trừ một nghiên cứu ở Tây Nguyên báo cáo mối liên quan tiêu cực.

Bien Doi Khi Hau O Viet Nam 03
Nhiều bệnh nhân nhập viện do nắng nóng (Nguồn: https://soyte.hanoi.gov)

Chi phí kinh tế y tế của biến đổi khí hậu ở Việt Nam

Tác động chính của biến đổi khí hậu là nhiệt độ tăng cao. Chúng tôi ước tính rằng chi phí chăm sóc sức khỏe do nhiệt độ tăng do biến đổi khí hậu ở thời điểm hiện tại là 0,6 tỷ USD-2,0 tỷ USD. Con số này có thể là giới hạn thấp hơn vì dự kiến ​​đến năm 2035, Việt Nam sẽ phải đối mặt với vấn đề già hóa dân số, kéo theo chi tiêu y tế cao hơn.

Ngoài ra, tác động của biến đổi khí hậu đến chi tiêu y tế ở Việt Nam sẽ liên quan đến mức tăng từ 1 tỷ USD lên 3,4 tỷ USD theo giá trị hiện tại. Ngoài bệnh tật, biến đổi khí hậu cũng có thể làm tăng tỷ lệ tử vong. Chi phí dự kiến ​​do tác động của biến đổi khí hậu đối với số ca tử vong sớm dao động từ 3 tỷ USD đến 20 tỷ USD.

Bệnh liên quan đến nhiệt cũng gây ra tổn thất về năng suất lao động do vắng mặt trong công việc. Chi phí ước tính của việc mất năng lực làm việc do biến đổi khí hậu dao động từ 6 tỷ USD đến 23 tỷ USD vào năm 2050 và sẽ là thành phần chi phí lớn nhất.

Tuyên truyền và nhận thức giảm tác hại biến đổi khí hậu ở Việt Nam

Nhận thức và sự tham gia của các nhóm dân cư dễ bị tổn thương, chẳng hạn như những người làm việc ngoài trời, người dân sống trong những ngôi nhà tồi tàn chật chội, những đứa trẻ, nông dân và các nhóm thiệt thòi. Mức độ nhận thức về biến đổi khí hậu và tác động sức khỏe khác nhau giữa các nghiên cứu.

Người dân chưa được chuẩn bị đầy đủ để ứng phó với những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu.

Về các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức, các nghiên cứu cho thấy nam giới và người dân sống ở các vùng thuận lợi có nhận thức cao hơn về biến đổi khí hậu và tác động của nó đối với sức khỏe con người so với phụ nữ và những người sống ở các cộng đồng nghèo khó.

Ngoài ra, năng lực bản thân cao có mối tương quan tích cực với việc áp dụng các hành vi bảo vệ môi trường ở học sinh. Các nghiên cứu cũng báo cáo mối quan hệ tích cực giữa giáo dục đại học và nhận thức sâu sắc hơn về biến đổi khí hậu.

Có nhu cầu cao về các chương trình truyền thông và giáo dục nhằm nâng cao nhận thức và nâng cao kỹ năng thích ứng trong việc giải quyết các tác động bất lợi của biến đổi khí hậu, đặc biệt là các bệnh liên quan đến biến đổi khí hậu.

Phân tích bổ sung về việc đưa tin trên các phương tiện truyền thông về tác động của biến đổi khí hậu đối với sức khỏe con người từ chính phủ Việt Nam và các phương tiện truyền thông đại chúng trực tuyến cho thấy sự gia tăng số lượng các bài báo của cả chính phủ và công chúng trong những năm qua.

Phân tích cho thấy tổng cộng 1392 bài báo truyền thông, 90,7% là từ các phương tiện truyền thông đại chúng, phần còn lại là từ các nguồn chính phủ. Hình dưới cho thấy mức độ đưa tin của các phương tiện truyền thông về chủ đề này từ năm 2005 đến năm 2022, được chia theo năm và loại phương tiện truyền thông.

Đáng chú ý, trong khi số lượng bài viết của chính phủ vẫn ở mức thấp thì các bài báo trên phương tiện truyền thông đại chúng lại liên tục tăng lên.

Bien Doi Khi Hau O Viet Nam 04
Hình 4 Tần suất đưa tin về biến đổi khí hậu và sức khỏe trên các phương tiện truyền thông đại chúng ở Việt Nam.

Cách thích ứng biến đổi khí hậu để có được sức khoẻ bền vừng

Một đánh giá thích ứng toàn diện ở Việt Nam năm 2018 cho thấy năng lực thích ứng của ngành y tế trước các mối nguy hiểm liên quan đến biến đổi khí hậu là rất thấp. Một đánh giá tại TP.HCM cũng nhấn mạnh, an toàn bệnh viện ứng phó với biến đổi khí hậu chưa cao.

Hiểu biết chưa đầy đủ về tác động phức tạp của biến đổi khí hậu đối với sức khỏe của nhân viên y tế, đặc biệt là ở tuyến y tế tuyến tỉnh và tuyến cơ sở là một trong những trở ngại lớn trong việc thực hiện các kế hoạch hành động.

Liên quan đến việc thích ứng của cộng đồng, đánh giá về chiến lược thích ứng với các hiện tượng khí hậu cực đoan cho thấy phần lớn các hộ gia đình không áp dụng bất kỳ biện pháp thích ứng nào hoặc chỉ thực hiện các hành động ứng phó.

Thay vì chủ động đưa ra các kế hoạch thích ứng lâu dài, cộng đồng có xu hướng ứng phó với các sự kiện cực đoan khi chúng xảy ra. Có nhiều rào cản khác nhau trong việc thích ứng và giảm thiểu tác động của các hiện tượng khí hậu cực đoan, chẳng hạn như năng lực của đội ngũ nhân viên liên quan còn thấp, thiếu ngân sách địa phương và các phương pháp thích ứng lỗi thời.

Nên duy trì sức khỏe hệ sinh thái ven biển để có thể hỗ trợ cuộc sống hàng ngày và hoạt động như một phần của chiến lược thích ứng với khí hậu.

Hệ thống quản trị thích ứng với biến đổi khí hậu của Việt Nam bao gồm một khung chính sách toàn diện về thích ứng với biến đổi khí hậu, quản lý rủi ro thiên tai và tăng trưởng xanh với các chính sách cấp quốc gia, địa phương và ngành.

Ủy ban quốc gia về biến đổi khí hậu

Ủy ban Quốc gia về Biến đổi khí hậu được thành lập năm 2012 do Thủ tướng Chính phủ làm chủ tịch là cơ quan có thẩm quyền cấp cao nhất chịu trách nhiệm xây dựng và thực hiện các chính sách về biến đổi khí hậu. Kể từ đó, các luật, chiến lược và kế hoạch hành động liên quan đến biến đổi khí hậu đã được Thủ tướng Chính phủ và các Bộ khác nhau ban hành.

Các chính sách chính bao gồm Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021–2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đến năm 2050 . Danh sách các chính sách và chiến lược quan trọng nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu ở Việt Nam từ năm 1994 đến năm 2022 được trình bày trong Phụ lục số 6 của bài nghiên cứu.

Bộ y tế với các chính sách sức khoẻ bền vững

Trong lĩnh vực y tế, Bộ Y tế chịu trách nhiệm xây dựng các kế hoạch và chính sách thích ứng. Theo đó, Bộ Y tế đã ban hành nhiều quyết định, thông tư và hướng dẫn liên quan đến thích ứng với biến đổi khí hậu, trong đó có Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu của ngành y tế giai đoạn 2010–2015 và Kế hoạch hành động phòng chống và ứng phó thiên tai. đáp ứng của ngành y tế giai đoạn 2015-2020.

Vừa qua Bộ Y tế đã ban hành Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu của ngành y tế giai đoạn 2019–2030, tầm nhìn đến năm 2050. Các cơ chế, chính sách của ngành y tế ứng phó với biến đổi khí hậu, nâng cao nhận thức và năng lực bảo vệ sức khỏe của cộng đồng và thích ứng với biến đổi khí hậu, cũng như tăng cường khả năng thích ứng của các hệ thống chăm sóc sức khỏe, tập trung vào cấp độ chăm sóc sức khỏe ban đầu, là những chiến lược thích ứng với biến đổi khí hậu quan trọng của ngành y tế.

Bien Doi Khi Hau O Viet Nam 05
PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hương -Thứ trưởng Bộ Y tế tại cuộc họp nhóm đối tác về biến đổi khí hậu và sức khỏe do Bộ Y tế tổ chức với sự hỗ trợ của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Liên minh Châu Âu.

Kế hoạch thích ứng cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải cải thiện hệ thống cơ sở dữ liệu để theo dõi, dự đoán và đưa ra cảnh báo sớm về tác động của khí hậu đến sức khỏe con người cũng như cần ưu tiên phát triển hệ thống chăm sóc sức khỏe có thể đáp ứng nhu cầu phòng chống dịch bệnh và các bệnh mới nổi do biến đổi khí hậu, tập trung vào ĐBSCL.

Chính phủ Việt Nam đã nhận thấy nhu cầu cấp thiết về các chiến lược thích ứng nhằm giải quyết các hậu quả về sức khỏe do tác động của biến đổi khí hậu. Chính phủ quốc gia và Bộ Y tế đã vạch ra các ưu tiên về sức khỏe và hành động cụ thể trong các chính sách và kế hoạch thích ứng của họ, làm nền tảng để tăng cường khả năng phục hồi của hệ thống y tế.

Sức khoẻ bền vững cộng đồng ở góc độ vĩ mô

Dựa trên bằng chứng thu được từ đánh giá hiện tại này, chúng tôi đưa ra một số khuyến nghị về chương trình nghiên cứu và chính sách thích ứng, tập trung vào việc cải thiện chất lượng nghiên cứu, các nghiên cứu cần thiết trong tương lai và các chiến lược thích ứng.

Để nâng cao chất lượng các nghiên cứu trong lĩnh vực này, điều quan trọng là phải chuẩn hóa các phép đo các yếu tố khí hậu, kết quả sức khỏe và phương pháp định lượng tác động, đánh giá tính dễ bị tổn thương và đánh giá hiệu quả của các biện pháp năng lực thích ứng.

Những tiêu chuẩn hóa này nên được tất cả các nhà khoa học trong lĩnh vực này áp dụng. Quá trình này sẽ tối đa hóa hiệu quả của việc xác nhận và sử dụng bằng chứng khoa học để cung cấp thông tin cho các chính sách và thực tiễn về biến đổi khí hậu và sức khỏe.

Ngoài ra, việc thúc đẩy chia sẻ dữ liệu giữa các ngành và nhóm nhà khoa học sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng nghiên cứu. Nó sẽ mang lại cho các nhà nghiên cứu cơ hội chia sẻ và sử dụng các bộ dữ liệu lớn và đáng tin cậy để nâng cao tính hợp lệ của bằng chứng khoa học của họ.

Điều này cũng sẽ thúc đẩy cách tiếp cận đa ngành nhằm giải quyết những thách thức phức tạp trong việc thích ứng với biến đổi khí hậu giữa các ngành. Hiểu rõ hơn về vai trò của các yếu tố gây nhiễu tiềm ẩn và các yếu tố điều chỉnh hiệu ứng cũng sẽ giúp cải thiện chất lượng nghiên cứu trong lĩnh vực này. Việc đánh giá giá trị bên trong và bên ngoài của bằng chứng cũng cần được xem xét một cách nghiêm túc và quá trình này cần được thực hiện từ giai đoạn thiết kế cho đến khi hoàn thành một nghiên cứu.

Đối với nhu cầu nghiên cứu trong tương lai, cần thực hiện nhiều nghiên cứu hơn ở nhiều địa điểm đại diện cho sự đa dạng về đặc điểm môi trường, kinh tế xã hội và dân số. Các nghiên cứu ở nhiều địa điểm sẽ không chỉ cải thiện tính khái quát của bằng chứng và giúp chúng ta hiểu rõ hơn về vai trò tương tác của các yếu tố khác mà còn cung cấp thông tin hiệu quả về chính sách và thực tiễn thích ứng ở các khu vực địa lý liên quan.

Nghiên cứu ở các cộng đồng dễ bị tổn thương chịu gánh nặng không cân xứng về tác động sức khỏe của biến đổi khí hậu do sự chênh lệch về kinh tế xã hội và năng lực thích ứng hạn chế cũng cần được ưu tiên.

Ngoài ra, việc khám phá các mối nguy hiểm đa dạng liên quan đến khí hậu (như sóng nhiệt, cực lạnh, hạn hán, cháy rừng, lũ lụt, bão và xâm nhập mặn) và đánh giá sự tương tác của chúng với các cuộc khủng hoảng đồng thời, chẳng hạn như đại dịch, là rất quan trọng để phát triển các chiến lược ứng phó tổng hợp.

Vì biến đổi khí hậu đã xảy ra và đang diễn ra nên cần phải tiến hành các nghiên cứu về các biện pháp can thiệp thích ứng để giảm tác động sức khỏe của các yếu tố liên quan đến biến đổi khí hậu trong khi các biện pháp giảm nhẹ đang được tiến hành chậm.

Các nghiên cứu trong tương lai nên áp dụng các phương pháp can thiệp và khoa học thực hiện để phát triển và đánh giá các hệ thống cảnh báo sớm bệnh nhạy cảm với khí hậu, các chiến lược và biện pháp thích ứng như hệ thống cảnh báo sức khỏe nhiệt và kế hoạch hành động. Những tác động lâu dài của biến đổi khí hậu đối với sức khỏe, bao gồm sức khỏe tâm thần và các bệnh không lây nhiễm, cũng cần nhiều nghiên cứu hơn.

Ngoài ra, các câu hỏi xung quanh sự tương tác phức tạp giữa biến đổi khí hậu và các yếu tố khác như các yếu tố kinh tế xã hội, bệnh lây truyền từ động vật sang người và hệ thống y tế cũng cần được giải quyết.

Việc thành lập một cộng đồng thực hành về sức khỏe khí hậu để tập hợp các chuyên gia đa ngành có chung mối quan tâm nghiên cứu và thực tiễn tốt nhất cũng như tạo ra kiến ​​thức mới về nghiên cứu và thực hành sẽ giúp thúc đẩy nghiên cứu trong lĩnh vực này.

Tăng cường cơ hội tài trợ cho các nghiên cứu về biến đổi khí hậu và sức khỏe từ các cơ quan tài trợ của chính phủ và tư nhân sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc khuyến khích các nhà khoa học tiến hành nghiên cứu về biến đổi khí hậu và sức khỏe.

Những thách thức trong việc thực hiện các chính sách thích ứng với biến đổi khí hậu nêu bật sự cần thiết phải có sự phối hợp liên bộ nhiều hơn và nỗ lực mạnh mẽ hơn để lồng ghép các cân nhắc về biến đổi khí hậu vào các chính sách và thực tiễn của ngành y tế và các ngành khác. Các ưu tiên được xác định trong ngành y tế cần được các ngành khác hỗ trợ để giải quyết hiệu quả các khía cạnh của biến đổi khí hậu và sức khỏe.

Ngoài ra, chiến lược thích ứng với biến đổi khí hậu trong ngành y tế cần tính đến gánh nặng bệnh tật, đặc điểm dân số dễ bị tổn thương và nguồn lực sẵn có ở từng vùng, tỉnh, thành phố. Để đảm bảo thành công các chính sách thích ứng với biến đổi khí hậu, đặc biệt là Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu của ngành y tế giai đoạn 2019-2030, tầm nhìn đến năm 2050, việc giám sát việc thực hiện và đánh giá hiệu quả của các kế hoạch là rất quan trọng.

Ngoài ra, nên tính đến các đánh giá về tính dễ bị tổn thương và khả năng thích ứng đối với các lĩnh vực có ảnh hưởng đến sức khỏe, như nước, an ninh lương thực và nông nghiệp. Những lĩnh vực này đóng vai trò là điểm khởi đầu quan trọng cho việc đánh giá phối hợp các rủi ro sức khỏe liên quan đến biến đổi khí hậu.

Hơn nữa, những đánh giá như vậy cần tăng cường nghiên cứu khoa học về rủi ro sức khỏe do biến đổi khí hậu ở Việt Nam, các nhóm dễ bị tổn thương và các biện pháp thích ứng để giúp các nhà hoạch định chính sách thực hiện những điều chỉnh cần thiết, bao gồm phân bổ đầy đủ nhân lực và tài chính cho các hoạt động ưu tiên.

Tóm lại, với xu hướng gia tăng nhiệt độ toàn cầu, thiên tai càng nhiều hơn và mức độ cực đoan càng nhiều hơn ảnh hưởng đến mọi ngành và lĩnh vực. Sức khỏe con người là quan trọng và dễ nhạy cảm nhất với các yếu tố thời tiết, khí hậu.

Bài báo này là nền tảng quan trọng để định hướng cho nhiều nghiên cứu chuyên sâu hơn, và cả việc ưu tiên về mặt chính sách cho công tác y tế dự phòng ứng phó với các rủi ro khí hậu trong tương lai.

Nguồn tham khảo:

https://phys.org/news/2023-11-disease-air-pollution-climate-impacts.html

https://www.researchgate.net/publication/375665403_Climate_change_and_human_health_in_Vietnam_a_systematic_review_and_additional_analyses_on_current_impacts_future_risk_and_adaptation

https://vepg.vn/wp-content/uploads/2022/11/gemmes-vietnam-national-climate-change-impacts-adaptation-final-report.pdf

https://www.thelancet.com/journals/lanwpc/article/PIIS2666-6065(23)00261-4/fulltext

https://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S2666606523002614?fbclid=IwAR328bP5axReA3vYTBR5FJvwYw3HxWv297Q6wJ0gfuK7dxV5_-vy7cUsW6Q

Bài viết cùng chủ đề:

Dấu Chân Carbon Là Gì? Báo Động Và Ứng Phó Trong Đời Sống, Canh Tác Và Sản Xuất Nông Nghiệp

Noom Cùng Tạp Chí ELLE – Tiêu Dùng Xanh Là Con Đường Back To Basic

CAP – Mối Quan Hệ Giữa Nông Nghiệp Xanh & Xã Hội, Quốc Gia & Nông Dân

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Tìm Kiếm
Sản Phẩm
HDSD
Chat Icon
Chat Icon
×